Lễ Hội Bà Chúa Xứ,Le Hoi Ba Chua Xu
Lễ Hội Bà Chúa Xứ
Hình ảnh núi Sam đã thấm đậm trong tâm hồn người dân An Giang nói riêng, và miền Nam nói chung với ngày lễ hội Vía bà tháng tư. Miếu Bà Chúa Xứ nằm dưới chân triền đông núi Sam, mặt chính hướng về núi, mặt sau tiếp giáp cánh đồng bạt ngàn bờ kênh Vĩnh Tế. Từ cao nhìn xuống Miếu Bà như đoá sen xanh vươn lên khoe sắc trong vườn hoa kỳ lạ. Miếu Bà Chúa Xứ và khu danh thắng núi Sam hàng năm đón nhận hàng triệu lượt người trong và ngoài nước đến tham quan chiêm bái.< /p> Văn hóa nghề cá - Đồng Tháp Mười phần 1
Theo thông lệ hàng năm, Vía bà Chúa Xứ được tổ chức vào các ngày 23, 24, 25, 26 và 27 tháng tư âm lịch. Vía chính là ngày 25. Vì sao người xưa lại chọn ngày này? Có người cho rằng xưa kia dân làng phát hiện ra tượng Bà vào ngày đó. Có thuyết cho là sau khi sạ lúa thắng lợi, nên tổ chức hội hè ăn mừng và làm lễ cúng tạ ơn, lâu dần thành lệ.
Các tác giả Thạch Phương- Trung Vũ, trong 60 lễ hội truyền thống Việt Nam chép rằng "Về nguồn gốc tượng Bà Chúa Xứ cũng như miếu bà được xây dựng từ bao giờ, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào nói rõ. theo lời các cụ già kể lại, thì ngôi miếu Bà được xây dựng đầu tiên bằng cây lá vào khoảng những năm 1820- 1825. Còn về chung quanh lai lịch của tượng bà thì có nhiều truyền thuyết khác nhau:
1. Có truyền thuyết kể rằng, một hôm dân địa phương vào núi đốn củi, tình cờ họ phát hiện tượng bà nằm ở giữa rừng, bèn về báo cho dân làng, sau đó dân làng đã cùng nhau đưa tượng về, lập miếu thờ.
2. Một truyền thuyết khác kể rằng có một vị thần linh tự xưng là Bà Chúa Xứ Châu Đốc đã báo mộng cho dân làng; Hãy chọn 9 cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam, đưa tượng ta về lập miếu thờ, ta sẽ phù hộ cho dân sống an lành và làm ăn phát đạt. Sau đó, 9 cô gái được chọn cử lên đỉnh núi tìm tượng đá và quả nhiên, họ đã gặp một tượng đá trong tư thế ngồi, mắt nhìn thẳng về phía trước, bèn khiêng về, kỳ rửa sạch sẽ, và lập mi̓ 1;u thờ. Từ đó, hằng năm dân làng lấy ngày tượng bà được "an vị" tại miếu làm ngày lễ Vía Bà.
3. Một truyền thuyết khác nữa gắn với chiến công của Thoại Ngọc hầu và việc trùng tu ngôi miếu làm ngày lễ Vía Bà. Dưới triều Minh Mạng, khi Thoại Ngọc hầu giữ trọng trách trấn giữ biên giới tây nam, giặc ngoại xâm thường sang quấy nhiễu. Mỗi lần ông xuất quân, bà vợ thường đến khấn vái, mong Bà phù hộ Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Về sau, để tạ ơn những điều ứng nghiệm, vợ Thoại Ngọc Hầu đã cho xây cất lại ngôi mi̓ 1;u to và khang trang hơn. Lễ khánh thành được tổ chức trong 3 ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, dân chúng lấy những ngày trên làm lễ Vía bà. Nếu chi tiết này có thật, thì đây cũng là một thông tin cho biết thêm rằng miếu Bà Chúa Xứ được xây dựng từ thời Minh Mạng.
4. Lại có truyền thuyết gắn với lễ Vía bà với tập quán sản xuất nông nghiệp ở địa phương, cho rằng tháng tư là thời vụ bà con xuống giống làm mùa. Họ làm lễ cầu Bà, hy vọng mùa sẽ được bội thu. Nhân dịp này, dân chúng tổ chức những cuộc vui chơi, rồi lâu dần thành lệ. Từ một hội làng Vĩnh Tế mang đặc điểm lễ cầu mùa trong nông nghiệp đã dần biến thành lễ Vía bà, thu hút đông đảo khách thập phương từ các nơi ngày càng đông.
Về nguồn gốc tượng, cho đến nay vẫn chưa xác định rõ xuất xứ cũng như niên đại. Tượng được tạc tại chỗ, hay từ nơi nào đưa đến? Vào thời kỳ nào và được vận chuyển đến núi Sam bằng phương tiện gì? Cần lưu ý thêm một điều là tượng được tạc bằng loại đá tốt, màu xanh (không giống loại đá ở vùng núi Sam) có hình dạng nam thần. Cánh tay bên phải bị gãy mất và được phục chế lại bằng một loại đá khác. căn cứ vào & #273;ường nét, phong cách thể hiện, một số nhà khảo cổ học cho rằng tượng thuộc loại nghệ thuật trung cổ Ấn Độ".
Hồ Tường khi quan tâm đến lễ hội vía bà chúa xứ cũng viết "Chánh điện của miếu bà gồm hai lớp. Lớp trong cùng là nơi thờ bà Chúa Xứ núi Sam với tượng bà bằng đá đặt trên bệ cao, sát hai bên là hai con hạc trắng biểu tượng cốt cách tiên thánh của Bà. Bên phải tượng Bà là một linga cũng bằng đá đặt trên một hương án thờ, gọi là bàn thờ Cậu. Bên trái tượng Bà, là hương án thờ một tượng gỗ chạm hình nữ giới, gọi là bàn thờ Cô. Lớ ;p thứ hai là bàn thờ Hội đồng, sát liền hai tượng chim phượng. Hai bên trái, phải của bàn thờ Hội đồng là bàn thờ Tiền hiền khai khẩn (ở bên trái) và bàn thờ Hậu hiền khai cơ (ở bên phải).
Về pho tượng bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc, khi bước vào khảo sát thực tế, thì pho tượng vốn là một pho tượng đá, thể hiện dáng hình một người đàn ông trong tư thế ngồi, chân trái của tượng xếp bằng tròn, mũi bàn chân giáp với chân phải; trong lúc chân phải để gập, co gối, chống thẳng bàn chân xuống mặt bệ đá. Tay trái của tượng ở tư thế chống nạnh, bàn tay xoải xuống mặt bệ đá, phía sau đùi trái. Tay phải tượng thả tự nhiên, bàn tay úp trên 3;ầu gối phải. Tóc tượng uốn thành những búp xoăn, thả về phía sau. Trên mặt tượng có một vành ngấn, là nơi đặt mão lên đầu tượng. Trong vành ngấn này có những hoa văn hình móc câu, riêng ở phần vành nằm trước trán của tượng có một hình tròn, chung quanh là những hoa văn kiểu ngọn lửa. Trên cánh tay để trần của tượng có một vành đai, giống như cái vòng đeo tay. Toàn bộ dáng hình của pho tượng là dáng hình một người đàn ông tràn đẩy sức sống, với bộ ngực căng nở và chiếc bụng phệ. Trên ngực của tượng có một vành đai như vòng kiềng, trước ngực là hình mảnh trăng lưỡi liềm khá rộng.
Toàn bộ pho tượng cao chừng 1,25m, được tạc liền một thớt đá cùng loại, với bệ tượng dày chừng 10cm. Về trang phục, tượng được tạc trong tư thế đang vận một chiếc khố. Ở bắp cánh tay, gần bả vai của tượng, sát nách, nổi cộm một vòng đai có hình dạng như một chiếc vòng đeo tay. ở cổ tượng nổi cộm một vòng đai hình vòng kiềng, chỗ vòng nằm ngay ngực khá to bản, hình lưỡi liềm, có lẽ là một thứ vòng đeo cổ xưa.
Thế nhưng từ lúc nào tượng được gọi là Bà Chúa Xứ núi Sam trong khi thực tế là một pho tượng đàn ông? Bộ sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn khi miêu tả lăng miếu, chùa chiền ở núi Sam cũng chỉ nói đến Tây An tự và lăng Thoại Ngọc hầu, mà không hề nói gì đến miếu bà Chúa Xứ núi Sam, trong khi miếu Bà hiện nay chỉ cách hai cơ sở nói trên chỉ một con đường. Điều này cho thấy vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mi̓ 1;u Bà Chúa Xứ có thể còn quá nhỏ nhoi, chưa có người đến chiêm bái đông đảo, nên chưa được sự để mắt của các sử thần triều Nguyễn. Ngay cả Sơn Nam khi miêu tả chùa miếu vùng biên giới các tỉnh hậu Giang cũng không đề cập đến miếu Bà Chúa xứ núi Sam:
"Vùng biên giới vẫn là nơi chùa miếu nhứt: đình thờ Nguyễn Hữu Cảnh, chùa Tây An (núi Sam), chùa Tây Sơn, đình thờ Thành Hoàng làng Vĩnh Ngươn (Châu Đốc), miếu họ Mạc, chùa Phù Dung, Tam Bảo, Địa Tạng, chùa Quan Công (Hà Tiên). Ban sơ, các chùa miếu đều lợp lá, đôi ba năm sau mới lợp ngói".
Do vậy có thể nói rằng miếu bà Chúa Xứ núi Sam chỉ mới bắt đầu phát lên từ những năm 60 của thế kỷ XX, khi "ban trị sự miếu Bà có công hương chủ Phạm Văn Tiên có đề xướng tô điểm mặt mày hình tượng thật giống phái nữ. được tất cả hưởng ứng, ông đến Chợ Lớn thuê thợ đắp tượng có tay nghề tinh xảo về điểm xuyết khuôn mặt và gắn pha lê vào đôi mắt trở nên sống động. Du khách đứng phía nào, quay mặt đều nhìn thấy ánh mắt của tượng rọi thấu suốt. Để củng cố niềm tin vô biên, thiện nam tín nữ thường dâng lễ vật hiến tế cả y phục đắt tiền, đồ trang sức bằng kim loại quý".
Theo nhà khảo cổ học người Pháp, ông Malleret, trong thời gian tiến hành khai quật khu Óc Eo- Ba Thê từ năm 1942 đến năm 1944, ông có đến núi Sam nghiên cứu tượng bà Chúa Xứ, và cho biết rằng đây là loại tượng nam thần, được tạo theo dáng người ngồi nghỉ ngơi, vương giả, vật liệu bằng sa thạch, giá trị nghệ thuật cao. Năm 1989, một đoàn ngoại giao Ấn Độ có đến thăm vùng này, vào miếu Bà Chúa Xứ, họ rất ngạc nhiên là được gặp loại tượng thần Shivalinga ở khu vực n úi Sam trong danh xưng Bà Chúa Xứ! Tóm lại, qua giám định bước đầu cho biết tượng Bà Chúa Xứ là một tác phẩm điêu khắc thời Trung cổ còn giữ lại đến ngày nay và được nhiều người sùng kính"